Chiếc giỏ đệm ngày xưa
Theo quan niệm xưa, nghề đan đệm, đan giỏ nói riêng, thủ công mỹ nghệ nói chung là nghề của phụ nữ, cho nên thấy tôi đan đệm giỏi, người hàng xóm chọc tôi có đôi tay thoăn thoắt giống như con gái (!). Mới đầu còn ngại nên tôi hay đỏ mặt, về sau quen, tôi bất chấp lời ra tiếng vào, tôi nghĩ, mình làm nghề gì cũng được, miễn sao không phạm pháp là tốt rồi. Gia đình tôi nghèo lắm, phụ cha mẹ một tay trong những lúc khó khăn, cho dù đó là “nghề của con gái”, tôi cũng cảm thấy vui lòng.
Lúc bấy giờ tôi học cấp hai, ngày chỉ học một buổi, buổi còn lại là thời gian tôi “mài đít” đan giỏ, đệm, có khi làm luôn cả ban đêm. Tuy cực mà vui bởi vì nghề đan đệm, đan giỏ lúc ấy cũng có hội, có phường, chúng tôi tập họp tại một nhà nào đó tương đối rộng rãi, thoáng mát vừa đan vừa nói chuyện, có khi quên cả giờ cơm. Nhà ai có cái cassette coi như là tụ điểm của mấy bà ghiền cải lương. Xài hết bình thì hùn tiền đem sạc (hồi đó chưa có điện), ai có băng cassette hay thì cho mượn, hát tới hát lui riết mòn nhẵn cái đầu từ, băng nhão như cháo cũng ráng nghe. Tôi không ghiền cải lương, nên đôi khi rủ một nhóm bạn gái cùng sở thích chạy tuốt ra gốc me đầu ngõ ngồi đan. Nhiều đứa cũng thích lắm, đan ngoài ngõ gió mát, muốn nói chuyện lớn tiếng cũng không bị ai rầy, nên các tụ điểm này càng ngày càng đông.
Nhịp sống cứ thế trôi đi, ngày tháng qua mau, có đứa đi lấy chồng, tôi thì tiếp tục đi học trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Nhiều lúc ngồi đan mà ứa nước mắt vì đói, chờ đan xong mấy cái giỏ xách bán kiếm tiền đổi gạo. Một cái giỏ 400 – 500 đồng, một người một ngày đan giỏi lắm 6 – 7 cái, mua được vài lít gạo. Đó là chưa trừ chi phí mua bàng, phơi, ép để có nguyên liệu đầu vào. Nhà ai có điều kiện thì lên rừng nhổ, không thì phải mua từng neo. Ngồi khom lưng đan ngày này qua tháng khác cũng mệt lắm chứ, có lúc sinh bệnh, đời sống bấp bênh vô cùng. Dần dà nghề đan đệm giỏ trở nên một nghề kiếm sống khi cơ chế thị trường mở ra, những người có vốn lập hẳn một vựa lớn chuyên mua đi bán lại những sản phẩm độc nhất vô nhị ,chỉ ở đồng bằng sông Cửu Long mới có. Từ đó, người đan đệm giỏ có một chỗ dựa tương đối an toàn trong những lúc túng quẫn, họ có thể ứng trước chủ vựa bao nhiêu tiền tùy khả năng làm hàng của mình và sự thoả thuận với nhau, sau đó bán sản phẩm cho chủ vựa và trả dần. Chủ vựa cũng nhờ đó mà có khoản lời đáng kể, cộng với phần gia công lại sản phẩm cho hoàn chỉnh để bán ra thị trường. Những chiếc giỏ đệm (giỏ gài đít) thường cung cấp cho mấy vựa trái cây hoặc nơi làm muối để họ đựng sản phẩm, bởi vì nó gọn, nhẹ, rẻ tiền, thuận lợi trong vận chuyển đi xa.
Tôi cũng có một thời gian làm nghề mua bán đệm, giỏ. Có chút vốn trong tay, tôi đi khắp nơi đặt hàng, từ Tân Hòa Thành vòng ra Phú Mỹ chỗ nào cũng có dấu chân tôi, chủ yếu lấy công làm lời. Đi mua đệm giỏ cũng có nhiều điều thú vị, tôi có thể lân la để tìm hiểu về cuộc sống, cảm nhận được niềm vui, nỗi buồn của người nông dân một nắng hai sương ban ngày còng lưng ngoài ruộng, tối về bó gối thức đến khuya đan thêm đệm, giỏ kiếm tiền đi chợ. Nhiều gia đình nghèo rớt mồng tơi, để có được hạt gạo nấu cơm thì phải đan đệm, giỏ. Cho nên tôi rất thông cảm với những vất vả của họ, cố công đi khắp xóm, khắp làng mua càng nhiều càng tốt sản phẩm của họ làm ra, có lúc cho ứng trước tiền để mua nguyên liệu đầu vào.
Những sản phẩm mua về tôi phải đầu tư gia công lại. Nhiều lúc gấp gáp, người đan không kịp bẻ bìa đối với đệm, không kịp đánh quai đối với giỏ xách, khi đem về phải thực hiện khâu đó, dĩ nhiên là phải trừ tiền vào những công đoạn chưa hoàn chỉnh đối với người bán. Khoản tiền chênh lệch này cũng khá, cho nên làm trung gian như tôi cũng có lợi miễn biết chịu khó, chịu khổ. Hồi đó, chợ Cổ Chi (Tân Hội Đông – Châu Thành) nhộn nhịp chợ bàng, chợ đệm, xôm tụ nhất là lúc hừng đông mỗi ngày, kéo dài tầm 7 – 8 giờ là tan. Vì ở xa, nên để kịp buổi chợ, tôi và ba mẹ tôi phải thức dậy từ 1 – 2 giờ khuya, chong đèn dầu, bơi xuồng bì bõm gần 15 cây số mới đến nơi. Nhiều lúc giữa đêm hoang vắng, nhất là những khúc cua, dòng sông lạnh ngắt không thấy bóng dáng chiếc xuồng nào khác, cũng lo lắng… Cực nhất là vào mùa mưa, dù tầm tả cỡ nào cũng phải tranh thủ cho đúng buổi chợ, vì nếu đến trễ thì coi như bữa đó công cốc; lại thêm phần trách nhiệm với những “mối ruột” chỉ để dành sản phẩm bán cho mình mà chỉ cần một ít tiền nho nhỏ ứng trước, lại nhớ những chị, những cô lam lũ, những cụ già 70, 80 tuổi lưng còng sát đất, nhưng không chịu từ bỏ cọng bàng, chiếc đệm.
Bây giờ đã qua cái thời gian khó đó, nhưng nhớ lại chiếc giỏ đệm ngày xưa, lòng lúc nào cũng thấy nao nao. Bà nội tôi nay đã gần 70 tuổi, tôi cố nài nỉ mà bà vẫn không chịu ngồi không, cứ ngày nào cũng khom lưng đan từng chiếc manh thưa bán cho người ta lót trái cây. Nội nói, nội rất nhớ thuở hàn vi, các con, các cháu lớn lên cũng nhờ vào mấy cọng bàng này đấy! Chợ Cổ Chi ngày nay cũng khác, người ta dành hẳn ra một khu vực để mở rộng chợ đệm, người mua kẻ bán tấp nập, phương tiện vận chuyển thuận lợi hơn nhờ đường nhựa thông thương, không còn cảnh bơi xuồng giữa đêm khuya nữa. Các chủ vựa bây giờ làm ăn lớn, họ chỉ cần ngồi một chỗ là có người đem nguyên liệu tới bỏ mối, người bán cũng tự mang sản phẩm đến, đại lý đến tận nơi gom hàng bằng xe tải, tiền bạc sòng phẳng kiểu kinh tế thị trường.
Dù gì đi nữa, ký ức về một thời ngồi ở góc me đầu ngõ, đếm từng sợi bàng như luôn nhắc nhở tôi đừng bao giờ quên chiếc giỏ đệm ngày xưa.
Nhật Linh